Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP)
Đây là biện pháp sử dụng thuốc ARV cho người chưa nhiễm HIV nhưng có hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV như quan hệ tình dục hoặc tiêm chích ma túy.
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế Việt Nam, các nhóm đối tượng nguy cơ được sử dụng PrEP để dự phòng lây nhiễm HIV gồm:
- Nam có quan hệ tình dục đồng giới
- Người chuyển giới nữ
- Người bán dâm
- Người tiêm chích ma túy
- Bạn tình của người nhiễm HIV mà người nhiễm HIV đó chưa điều trị ARV hoặc điều trị ARV nhưng tải lượng virus chưa đạt dưới ngưỡng phát hiện (có ≥ 200 bản sao/ml máu).
Trong PrEP, thuốc ARV được sử dụng là tenofovir đơn thuần hoặc chứa 2 loại thuốc kháng virus phối hợp. Vào năm 2019, FDA đã phê duyệt tenofovir alafenamide/emtricitabine dưới dạng PrEP cho thanh thiếu niên và người lớn nặng ít nhất 77 lb (35 kg). Ở Việt Nam, chương trình PrEP đang sử dụng là loại phối hợp 2 thuốc: tenofovir và emtricitabine.
Thuốc sẽ giúp ngăn chặn virus xâm nhập và nhân lên. Nếu tuân thủ tốt điều trị, có thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV từ 96 đến 99%.
Các thuốc ARV dùng trong PrEP không được bán tự do mà người có nhu cầu sử dụng phải đến các cơ sở khám chữa bệnh để được bác sĩ thăm khám, tư vấn, chỉ định thuốc điều trị và hướng dẫn dùng thuốc một cách chính xác nhất.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (PEP)
PEP là phương pháp dùng thuốc ARV để ngăn ngừa HIV sau khi có khả năng bị phơi nhiễm HIV. PEP được dùng càng sớm càng tốt, tối đa trong vòng 72 giờ (3 ngày) sau khi tiếp xúc hoặc có khả năng cao bị phơi nhiễm HIV. PEP được chỉ định trong các trường hợp sau đây:
- Trong khi quan hệ tình dục (ví dụ: bao cao su bị rách khi quan hệ với bạn tình không rõ tình trạng nhiễm HIV hoặc bạn tình nhiễm HIV mà không biết tải lượng virus hoặc tải lượng virus không bị ức chế).
- Thông qua việc dùng chung kim tiêm, ống tiêm dùng chung hoặc các thiết bị khác dùng để tiêm chích ma túy.
- Thông qua tấn công tình dục
- Phơi nhiễm với máu hoặc dịch cơ thể khi thực hiện nghiệp vụ: bơm máu vào tay khi làm thủ thuật, tiếp xúc trực tiếp với máu khi cấp cứu; công an trấn áp tội phạm.
Thuốc lúc này sẽ có tác dụng ngăn chặn virus xâm nhập vào cơ thể. PEP có hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm HIV khi dùng đúng cách, nhưng không đảm bảo hiệu quả 100%.
Phác đồ được khuyến nghị là sự kết hợp của 3 loại thuốc ARV, bao gồm: emtricitabine, tenofovir và raltegravir, dùng thuốc mỗi ngày trong 28 ngày.
PEP chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. PEP không thể thay thế cho việc sử dụng thường xuyên các biện pháp phòng ngừa HIV khác. PEP không phải là lựa chọn phù hợp cho những người có nguy cơ phơi nhiễm HIV thường xuyên. PEP an toàn nhưng có thể gây tác dụng phụ như buồn nôn ở một số người.
Điều trị cho người được chẩn đoán bị nhiễm HIV
Nguyên tắc điều trị là điều trị ngay sau khi được chẩn đoán nhiễm HIV, người bệnh sẽ được dùng thuốc ARV ngay lập tức trong mọi trường hợp. Điều trị hàng ngày, liên tục, suốt đời và cần tuyệt đối tuân thủ theo chỉ định để đảm bảo hiệu quả và tránh kháng thuốc.
Nếu được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời với đúng phác đồ phù hợp, sau 3 tháng, nồng độ virus HIV trong máu sẽ giảm mạnh, người bệnh sẽ bắt đầu khỏe mạnh trở lại và khả năng lây nhiễm HIV cho người khác dường như là rất thấp.
Khi đã điều trị từ 6 tháng đến 1 năm, HIV sẽ bị ức chế và nồng độ HIV trong máu sẽ giảm xuống dưới ngưỡng có thể phát hiện bằng xét nghiệm, người bệnh đã khỏe mạnh giống như người không bị nhiễm HIV và không còn lây nhiễm HIV cho người khác. Hầu hết những người điều trị HIV hàng ngày đều đạt tải lượng virus không thể phát hiện được trong vòng 6 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị. Điều quan trọng là phải uống thuốc đúng giờ, đủ liều và tái khám đúng theo chỉ định của bác sĩ.
Theo Bộ Y Tế Việt Nam, thuốc ARV điều trị nhiễm HIV phải kết hợp ít nhất 3 loại thuốc. Theo Hướng dẫn điều trị và chăm sóc HIV/AIDS, phác đồ điều trị HIV có 3 bậc. Cụ thể như sau:
Đặt câu hỏi cho bác sĩ
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để tạo câu hỏi
Chia sẻ với bác sĩ các thắc mắc của bạn để được giải đáp miễn phí.
Đăng ký hoặc Đăng nhập để đặt câu hỏi cho bác sĩ!